Búp Sen Xanh bao gồm 3 phần chính, tương ứng mỗi phần là một giai đoạn cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thời thơ ấu, Thời niên thiếu và Tuổi hai mươi. Một cuộc đời thanh khiết như đóa hoa sen đã được nhà văn Sơn Tùng đúc kết lại bằng tất cả niềm kính trọng và hết mực thương mến. Tác giả viết về lịch sử nhưng lại không hề khô khan mà lồng ghép vào đó là chất văn mềm mại, chất thơ trữ tình, mang đến cho người đọc những góc nhìn tràn đầy tin yêu và tự hào về người cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Trong phần đầu tiên, Búp Sen Xanh tái hiện lại lịch sử gia đình Bác Hồ cũng như chuỗi ngày thơ bé của cậu bé Nguyễn Sinh Côn (tên thật của Bác, sau này chúng ta vẫn hay đọc là Nguyễn Sinh Cung).
Ngay từ những ngày ấu thơ, Bác Hồ đã được nuôi dạy trong một gia đình có truyền thống hiếu học. Từ ông ngoại Bác là thầy đồ Hoàng Xuân Đường đã trọng chữ nghĩa, biết quý người tài. Cho đến cha Bác là cụ Nguyễn Sinh Sắc cũng là một nho sĩ có chí học hành, học để giúp đời cứu người chứ chẳng thiết tha chi chức vị quan liêu. Vì thế, anh em Người đều được lớn lên bằng những đạo lí lương thiện, sống đúng lẽ đời, theo đuổi nghiệp học mà nuôi chí lớn. Có lẽ, gia đình chính là nền tảng vững chắc hình thành nên nhân cách vĩ đại của Bác Hồ bởi những giá trị sống thanh liêm, ngay thẳng được nối truyền từ đời này sang đời khác; từ chính những lời dạy bảo nghiêm khắc của cha; từ tình yêu thương dịu dàng của bà, của mẹ và từ sự đùm bọc che chở lẫn nhau giữa anh chị em trong nhà.
Hình ảnh cậu bé Nguyễn Sinh Côn thời thơ dại được khắc họa với đầy đủ các nét tinh nghịch vốn có của một đứa trẻ: phá tổ chim, làm vỡ bát của bà, bị cha trách phạt, tò mò đủ điều trên đời,… Nhưng nổi bật trên hết vẫn chính là trí tuệ hơn người cũng như tấm lòng lương thiện, thấu đời hiếm thấy ở một em nhỏ. Tuổi bé nhất trong lớp học nhưng Nguyễn Sinh Côn là cậu học trò lanh lợi, thuộc bài nhanh nhất, đối thơ hay nhất, ý tứ sâu rộng khiến nhiều thầy phải cảm thán và đặt hi vọng vào tiền đồ sau này.
Khác với bạn bè cùng lứa, Nguyễn Sinh Côn đã sớm hình thành nên những nhận thức sâu sắc về cảnh nhà, cảnh nước. Trong lòng Người vẫn luôn đau đáu về những bài học của cha, về viễn cảnh lầm than của người dân, về câu hát “Nước Nam ta sao lại có Tây” của ông Xẩm. Để rồi khi trải qua biết bao biến cố từ em mất, mẹ mất rồi bà mất, những nỗi đau dồn nén cứ thế chồng chất trong một trái tim non nớt, càng làm mạnh mẽ thêm ý chí kiên cường của cậu con trai ấy. Tuổi thơ Bác dần khép lại với những mất mát, tổn thương và lòng yêu nước cuộn trào.
Phần này chủ yếu kể lại quá trình Bác Hồ theo cha vào Huế và theo học tại trường Quốc học Huế – ngôi trường danh giá bậc nhất lúc bấy giờ. Cũng chính thời gian này, nhận thức của Bác về thời cuộc được hình thành rõ nét hơn bao giờ hết. Với vốn chữ học được và tình đồng bào thiêng liêng, Bác đã cùng các bạn học của mình đi đầu đoàn biểu tình đòi giảm thuế của nhân dân và từ đó bị thực dân Pháp điểm mặt, truy lùng. Nhờ có các mối quan hệ xung quanh, Bác Hồ được Pháp cho cơ hội quay lại hoàn thành việc học tại trường nhưng nhớ về hình ảnh vua Thành Thái cao quý không phục tùng theo thực dân, chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành lúc bấy giờ quyết định đi theo con đường của riêng mình, vì danh dự liêm khiết và vì những lí tưởng lớn.
Bác Hồ chọn ra đi, Bác sẽ đi đến những vùng đất mới để học hỏi điều hay mà cứu nước. Bắt đầu là các tỉnh Nam Trung Bộ, Bác đến và ở lại dạy học tại trường Đông Ba. Tại đây, Người đã truyền đạt con chữ cho những trẻ em nghèo, không chỉ vậy, còn dạy cho các em cách sống, cách làm người, cách yêu thương nhân dân. Tấm lòng thanh khiết, lương thiện, yêu trẻ, kính già của Bác Hồ khiến ai ai cũng yêu quý và nể trọng một thầy giáo sáng trí sáng tim.
Tại Phan Thiết, Bác Hồ cũng gặp lại Tư Lê – người được Bác cứu khi đang bị thương trong cuộc biểu tình ngày trước. Cuộc gặp gỡ này đã đánh dấu những bước chuyển mạnh mẽ trong hành trình cứu nước của Người. Bác Hồ quyết định theo Tư Lê vào Sài Gòn. Trước khi đi, Người đã để lại thư tạm biệt với mọi người ở trường Đông Ba, không quên dặn dò lớp học trò nhỏ gắng phấn đấu vì một tương lai tươi sáng hơn.
Trong phần này, tiểu thuyết Búp Sen Xanh tái hiện lại khoảng thời gian Bác Hồ làm thợ khuâng vác tại bến cảng Nhà Rồng. Lúc này, Bác cùng các anh thợ làm chung ở nhờ nhà của ông Đờn và cô Út Huệ. Cởi bỏ hình ảnh một thầy giáo thư sinh, Bác Hồ từ chối mọi lời tâng bốc xung quanh, muốn sống ngang bằng với người dân. Bác khoác lên mình hình ảnh một “cu li” không ngại gian khổ, làm việc nhọc nhằn như bao người khác. Cũng chính vì thế, mà Người càng thêm thấm thía nỗi cơ cực của nhân dân lao động dưới ách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, càng thêm căm phẫn sự gian dối, độc ác của bọn cướp nước và từ đó càng quyết tâm cho sự nghiệp giành lại độc lập, nhân quyền.
Đã là một hiền tài thì dù đi đến đâu cũng được nhân dân yêu mến, Bác Hồ chính là như thế. Cuộc sống ở Sài Gòn của Người dẫu vất vả nhưng lại nhận được vô vàn sự tin yêu bởi tấm lòng bao dung, thương người như thể thương thân, dang tay cứu giúp kẻ khó khăn, bần cùng và đặc biệt là sẵn sàng mở lớp học truyền dạy con chữ cho những người lao động. Con chữ được thầy giáo Ba chỉ dạy vào những đêm tối đã tiếp thêm sự tự tin, giúp mọi người giữ vững tinh thần, không để thực dân có cơ hội làm mụ mị.
Những ngày giữa năm 1911, lòng Bác Hồ đã quyết chí tạm xa Tổ quốc vì nghiệp lớn. Người đến từ biệt cha, từ biệt anh em thợ, ông Đờn, cô Út Huệ trước khi cất bước lên đường. Ngày 5/6/1911, chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức lên tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin sang Pháp, để lại sau lưng là đồng bào máu thịt chờ ngày được giải phóng, ôm trong mình là ngọn lửa cứu nước rực cháy.
Quyển sách Búp Sen Xanh đã mang đến cho người đọc những góc nhìn chân thực về hành trình của Bác Hồ, một người từ bé đến khi trưởng thành đã sớm là người gánh vác nghiệp lớn. Dẫu vậy, tinh thần ấy vốn dĩ không phải thiên bẩm mà là được rèn dũa, hun đúc qua từng thế hệ trong gia đình, từ những sự kiện lịch sử mà Bác tận mắt chứng kiến. Qua đó, chúng ta không chỉ tự hào về Bác Hồ mà còn là nể trọng truyền thống thanh liêm của gia đình Người.
Búp Sen Xanh là một cuốn sách không chỉ kể về tuổi trẻ của Bác Hồ mà còn để lại trong lòng thế hệ trẻ ngày nay những xúc cảm sâu lắng về nhân cách, lí tưởng, về tình yêu nước và sự hi sinh cao cả. Đóa sen xứ Nghệ một đời thanh khiết, sáng mắt, sáng trí và sáng cả tim. Những năm tháng trẻ dại đã biết yêu thương người dân nghèo, chia ngọt sẻ bùi với kẻ bần hàn dẫu mình cũng chẳng khá hơn là bao. Bao điều hay lẽ phải ở đời đều học và làm theo. Một cậu bé hiếu động, thông minh, giàu lòng trắc ẩn đã lớn lên trong những mất mát, trong những trăn trở về vận mệnh quê hương để rồi quyết chí ra đi, tìm con đường giải phóng dân tộc. Người là tấm gương sáng để lớp người sau noi theo và không ngừng phấn đấu.
Không phải tự nhiên mà trong suốt những ngày niên thiếu, tâm tưởng của Bác Hồ vẫn day dứt mãi câu hát của ông Xẩm “Nước Nam ta sao lại có Tây”. Câu hát tưởng chừng đơn giản nhưng lại cứa vào lòng cậu bé Nguyễn Sinh Côn một nỗi đau dai dẳng khôn nguôi, được nhắc đi nhắc lại trong cả quyển sách. Đó không chỉ là một câu hỏi, mà còn là một lời nhắc nhở, là nỗi đau chung của cả dân tộc. Câu hát năm nào dần biến thành một lời thề thầm lặng – một lời thề sẽ đi tìm con đường cứu nước.
Bên cạnh đó, điều khiến bao người xúc động hơn cả còn là sự hi sinh thầm lặng của Bác dành cho dân tộc. Ai cũng mong muốn có một mái ấm, một chốn đi về, nhưng Bác đã chọn đặt quê hương lên trên tất cả. Người từng nói, nếu lấy vợ chỉ vì để có người thay mình gánh vác gia đình thì chẳng phải là đang quá tàn nhẫn với một người phụ nữ hay sao, ấy là không công bằng với một đời người. Chính suy nghĩ ấy đã cho thấy tấm lòng bao dung, một trái tim luôn nghĩ cho người khác trước cả bản thân mình. Bác không chọn con đường dễ dàng, cũng chẳng màng đến hạnh phúc riêng tư, bởi với Bác, nhân dân mới chính là gia đình lớn nhất.
Đọc Búp Sen Xanh, mình không chỉ hiểu hơn về hành trình tuổi trẻ của Bác mà còn cảm nhận được sâu sắc tinh thần vững vàng của một con người mang trong mình khát khao thay đổi vận mệnh nước nhà. Hành trình ấy có cô đơn, có nhọc nhằn, nhưng chưa một lần chùn bước. Đóa sen xanh ấy vẫn vươn mình mạnh mẽ giữa bùn lầy, mang theo cả một niềm tin và hi vọng cho dân tộc Việt Nam.
Các bạn có ý kiến gì về bài viết này không? Hãy để lại nhận xét của các bạn để mình có thể phản hồi và hoàn thiện hơn nữa.