Việt Nam nổi tiếng với chiếc nón lá bài thơ, người con gái mặc tà áo dài đội chiếc nón lá nghiêng nghiêng e thẹn cười là hình ảnh quen thuộc với bạn bè quốc tế. Từ xưa đến nay, có nhiều vùng chằm nón nổi tiếng, một trong số đó là nón Gò Găng, Đập Đá, Phú Gia ở Bình Định. Nón làm ra có hẳn một phiên chợ vào lúc đầu ngày mới để phân phối cho bà con và tiểu thương. Có rất nhiều điều thú vị xoay quanh “phiên chợ gà gáy” này, chợ đã được duy trì như một phong tục truyền thống lâu đời, và cũng chẳng ai biết nó đã được ra đời từ lúc nào.
Đến tầm 4 giờ sáng chợ đã bắt đầu thưa thớt. Ai mua rồi thì lo xếp nón để vận chuyển. Ai bán xong thì bắt đầu tìm đến khu bán vật liệu gồm lá nón, những bó giang rừng,…để mua. Làm mười chiếc nón nhưng chỉ được khoảng 10 000 đồng, nên giá vật liệu làm nón cũng phụ thuộc theo. Người làm nón thường là những người phụ nữ rảnh giờ nông nhàn nên dù tiền không cao nhưng ai cũng muốn kiếm thêm đôi chút để lo cho gia đình.
5 giờ sáng, chợ vãn. Hừng đông bắt đầu le lói. Mọi người lục tục kéo nhau ra về. Bóng dáng mọi người vội vã sợ trễ chuyện đồng án. Trong phút chốc cảnh vật lại yên tĩnh như chưa hề có những tiếng gọi nhau í ới, tiếng gà gáy lúc sớm mai. Ngày lại bắt đầu tiếp diễn.
Điểm thú vị thứ hai là chợ chỉ bán một món hàng duy nhất là nón lá thô, vật dụng làm nón. Các hoạt động mua bán diễn ra dưới ánh đèn dầu leo lét, chỉ đủ để người mua người bán xem chất lượng nón và nhìn thấy đồng tiền đưa qua thối lại.
Điều thú vị thứ ba: sự tích chiếc nón lá. Ngày xưa, vùng đất Bình Định nổi tiếng với chiếc nón ngựa, một loại nón chủ yếu sản xuất để cung cấp cho giới quan lại triều đình, các bậc văn nhân thượng lưu, công tử con nhà quyền quý. Có người cho rằng, nón ngựa được cải tiến từ nón thượng của người Chiêm Thành. Làng Gò Găng nằm sát bên cổ thành, đã bắt chước cách chằm nón của người Chiêm Thành, có thay đổi chút ít để trở thành chiếc nón của người Việt. Có người thì lại bảo, nón ngựa Gò Găng có từ thời Tây Sơn khởi nghĩa với sự tích Nguyễn Nhạc cưỡi bạch mã, đầu đội nón ngựa.
Nón ngựa đẹp nhưng cầu kỳ, làm rất công phu và trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ. Thời gian để chằm xong một chiếc nón ngựa phải mất cả tháng trời, vì vậy mà giá bán rất đắt, chỉ có người quyền quý cao sang mới mua nổi. Về sau, nón ngựa được cải tiến dần để phục vụ cho người lao động. Từ nón ngựa đơn sang nón lá, nón buôn, nón chũm,…giá bình dân và được mọi người, đặc biệt là người nông dân ưa chuộng.
Từ Nam chí Bắc, nón lá Gò Găng đã trở thành vật dụng thân thiết cho người nông dân một nắng hai sương, cho các bà các chị đi chợ, đi chùa. Dù trải qua nhiều biến cố lịch sử và thay đổi của thời gian, chiếc nón Gò Găng bây giờ là sự kết hợp các chi tiết giữa nón bài thơ xứ Huế và nón ngựa Tây Sơn ngày xưa. Phiên chợ Gò Găng bán chiếc nón lá thì vẫn giữ nguyên tính mộc mạc của mình. Dòng thời gian có luân chuyển, từ thế hệ này sang thế hệ khác, những người con gái lặng lẽ ngồi đan nón lá là một nét đẹp dịu hiền trong nét văn hóa Việt Nam.